Nhân học y tế

Nhân học y tế hay Nhân học y học (Tiếng Anh: Medical Anthropology) là một phân ngành trong nhân học ứng dụng tìm cách sử dụng lý thuyết của nhân học để giải thích và giải quyết các vấn đề về y tế và sức khỏe. Mục đích của nhân học y học là tìm hiểu các cảm nhận của đối tượng nghiên cứu về thân thể, sức khoẻbệnh tật của họ cũng như các hành động của họ liên quan đến các vấn đề này.[1] Nó xem con người từ nhiều chiều và quan điểm sinh thái[2]. Đây là một trong những chuyên ngành phát triển cao nhất của nhân loại học và nhân học ứng dụng[3] và là một chuyên ngành của nhân học văn hóa và xã hội, nhưng gốc rễ nó nằm sâu trong y học và những ngành khoa học tự nhiên khác, bởi vì nó quan tâm đến một phạm vi rộng của những hiện tượng sinh học, đặc biệt liên quan đến sức khỏe và bệnh tật.Theo định nghĩa của Foster và Anderson (Medical anthropology – Newyork, Wiley, 1978): Nhân học y tế là một chuyên ngành văn hóa sinh học nghiên cứu đến cả hai khía cạnh sinh học và văn hóa xã hội của hành vi loài người, đặc biệt nghiên cứu những cách thức mà hai khía cạnh này tương tác với nhau trong suốt lịch sử của nhân loại để ảnh hưởng lên sức khỏe và bệnh tật. Các nhà nhân học y học không nhất thiết phải được đào tạo chuyên ngành y. Họ được đào tạo để biết cách áp dụng các khoa học xã hội vào việc giúp hiểu rõ hơn về các vấn đề sức khoẻ của mọi người cũng như về cách thức mọi người tiếp nhận và xử trí các vấn đề sức khoẻ của họ.Thuật ngữ nhân học y tế đã được sử dụng từ năm 1963 như là một nhãn cho nghiên cứu thực nghiệm và đưa lý thuyết từ các nhà nhân chủng học vào quá trình xã hội và đại diện văn hóa của sức khỏe, bệnh tật và thực hành điều dưỡng.[4]châu Âu, các từ ngữ nhân học y học, nhân chủng học về sức khỏe và nhân học bệnh tật đã được sử dụng, và "nhân học y tế" là một từ được dịch từ thế kỷ 19 ở Tiếng Hà Lan: medische Anthropologie vào. Thuật ngữ này đã được lựa chọn bởi một số tác giả trong những năm 1940 để tham khảo nghiên cứu triết học về sức khỏe và bệnh tật.[5]